Tôi tự hào lấy chồng người gốc Hà Nội
Tôi là người miền Nam. Đến khi lấy chồng là người gốc Hà Nội. Những ngày đầu về làm dâu, tôi mới cảm nhận được nếp sinh hoạt khác biệt giữa hai miền. Đầu tiên là cách mời trước bữa ăn. Ở nhà tôi, trước khi ăn mời ông bà ba mẹ, đông đủ rồi thì ăn. Nhà chồng lại khác, lên mâm cơm, người nhỏ mời từng người lớn, xong hết mới bắt đầu ăn. Dù các thành viên đã dùng bữa, mình ăn sau vẫn mời. Câu mời phải có đầu có đuôi “con mời bố xơi cơm”, chứ không phải “ba ơi, vô ăn cơm” như ở nhà. Khi ăn nhẹ nhàng từ tốn, tránh gây ra tiếng động, có chuyện gì cũng đợi ăn xong mới nói. Sau bữa cơm, mọi người ngồi lại, uống nước, ăn bánh, thong thả chuyện trò. Bữa ăn đôi khi kéo dài hai ba tiếng.

Mọi người nói chuyện với nhau lễ phép, một tiếng thưa hai tiếng gửi. Đợi người khác nói xong mới đến lượt mình. Lúc nói chậm rãi, không hấp tấp vội vàng. Bố chồng tôi khi kể chuyện luôn mở đầu “chuyện là vầy”, “như thế này nhé”. Đã ngoài tám mươi, nhưng nói chuyện với người ngoài, người nhỏ tuổi hơn ông vẫn “vâng ạ”. Ông bảo người Hà Nội xưa nay vẫn thế. Bố dạy con cháu trong nhà cư xử lịch thiệp trong từng cử chỉ, hành động nhỏ, cẩn trọng lời ăn tiếng nói, không tranh cãi, không hơn thua. Bố nhắc mọi người từ tốn, chậm rãi trong giao tiếp, trong hành xử cũng như quyết định. Ảnh hưởng phong cách của bố, tôi dần khắc phục được cái tính nhanh nhảu đoảng của mình.
Mọi người thẳng thắn với nhau, không xu nịnh, không lấy lòng cũng tránh mỉa mai. Bố kể chuyện, được mời đi ăn, chủ nhà hỏi, anh thấy ngon miệng không. Nếu ngon thì bố khen ngay, không ngon bố sẽ bảo, rượu ngon, hoặc trà thơm, chứ không khen lấy lệ. Bố dạy con cháu trong nhà đi đứng khoan thai, không đi quá nhanh sẽ khổ cả đời, cũng không rề rà chậm chạp trông kém lanh lợi. Bố chọn lối sống bình dị, nhưng chỉn chu. Mọi người không lòe loẹt theo mốt, ăn mặc đúng tuổi đúng thì đơn giản mà gọn gàng, không để đầu bù tóc rối, áo quần nhăn nheo ra đường. Cánh đàn ông bước ra ngoài thì mặc áo có cổ, quần dài, trời nóng thì mặc quần ngang gối, tuyệt đối không mặc quần cộc, càng không để mình trần ra khỏi phòng.

Các bà, các bác trong gia đình đa phần đều giỏi nữ công gia chánh, đặc biệt mẹ nấu ăn rất ngon. Những dịp lễ tết hay khi đại gia đình tập trung, kẻ nấu ăn, người làm bánh, mỗi người một món đủ mâm mỹ vị. Tôi ghiền món bún thang và món phở mẹ nấu. Giờ mẹ không còn, cả nhà vẫn nhắc cái hương vị đặc biệt trong món ăn của mẹ. Những chiếc áo len, đến mùa đông được đem ra, áo này cô Hảo đan, áo kia cô Hương móc. Chồng tôi còn giữ cái áo thun trắng nay đã ố vàng, trên đó vẽ các nhân vật hoạt hình sinh động, do chính tay cô Hồng, em của bố vẽ tặng các cháu.
Bố sống kín đáo, cánh cửa nhà luôn đóng để giữ sự yên tĩnh và riêng tư trong nhà. Mẹ chồng lúc sinh thời thỉnh thoảng qua lại giao lưu với hàng xóm láng giềng, về nhà cũng kể chuyện ông A, bà B ở đầu đường cuối ngõ, nhưng luôn giữ chừng mực cho mình và cho người khác. Câu chuyện sau bữa cơm, nếu con cháu đứa nào có chiều hướng bình phẩm, khen chê, bố sẽ đằng hắng “mỗi người có cách sống riêng của họ”, mọi người lập tức chuyển sang những vấn đề vui vẻ.
Bố là người coi trọng gia đình và truyền thống. Cuộc sống hiện đại, nỗi lo cơm áo gạo tiền kéo mỗi người đi mỗi ngả. Nhưng đến ngày giỗ kỵ mọi người đều quay về, thắp nén hương cho ông bà tổ tiên, để mọi người nhớ cội rễ của mình, để anh chị em, họ hàng được gần gũi, sẻ chia. Sau nhiều năm, tôi đã quen nếp sinh hoạt trong gia đình chồng. Tôi thầm cảm ơn bố đã giữ gìn nếp sống của người Hà Nội đến tận bây giờ, để dẫu có đi xa, những tính cách tốt đẹp ấy vẫn được truyền thừa cho các thế hệ cháu con./.
Ngọc Thanh


Tháng Tư chạm ngõ, mang theo những tia nắng đầu hạ vàng ươm như mật ong rót xuống từng tán cây. Nắng nhẹ nhàng, chưa gay gắt, chỉ đủ để hong khô những giọt sương còn vương trên lá, đủ để làm bừng sáng những con đường ngập tràn hoa cỏ.
Có người ngồi bên hiên nhà, tay cầm ly cà phê đen sóng sánh, nhìn mưa rơi lách tách ngoài sân. Hương cà phê thoảng lên, đắng mà thơm nồng nàn, như chính những ngày cô đã đi qua trong đời.
Tháng Ba khép lại bằng những ngày nồm ẩm, lạnh se sắt xen lẫn những cơn mưa phùn lê thê. Miền Bắc giao mùa như một cô gái đỏng đảnh, lúc nắng ấm dịu dàng, lúc lại trở mình hờn dỗi, để lại trong không gian hơi ẩm bức bối, khiến lòng người cũng chùng xuống theo những giọt mưa.
Tháng Ba về, khi thời tiết ở Hà Nội dần trở nên ấm áp hơn, có người thường ra phố, tìm mua ít quả nhót từ gánh hàng của các chị bán rong trên phố. Dẫu không thích ăn chua nhưng chỉ cần nhìn thấy mấy quả nhót chín ứng đỏ như đôi má trẻ thơ khi gió xuân tràn về, lòng cô không khỏi nôn nao nỗi nhớ quê hương.
Những sáng mai thức giấc giữa vô vàn tiếng chim, có người chợt nhận ra thành phố nơi cô sống là một thành phố hiền lành, không chỉ dành cho con người mà còn dành cho chim muông hoa cỏ.
Hà Nội tháng Ba, những ngày giao mùa khi trời còn vương chút se lạnh nhưng đã bắt đầu lẫn trong đó cái ấm áp dịu dàng của mùa xuân. Trong không gian ấy, có một loài hoa không thơm nhưng lại khiến lòng người xao xuyến, khiến ai từng gặp cũng phải dừng chân ngước nhìn - đó là hoa gạo.
0