Đắng cay mới thấy ngọt bùi
This is a modal window.
Cha tôi sinh ra trên mảnh đất miền Trung, nơi mà thiên tai năm nào cũng hoành hành, nơi mà đất đai không màu mỡ như những vùng quê khác, cho nên cái đói một thời cứ bám đuổi người dân quê tôi.
Đó chính là vị đắng của đói nghèo, khổ cực để cha tôi phải dứt áo, rời làng tìm đến vùng đất mới. Cha tôi nói: "Người miền Trung đã quen với khó khăn, chính sự nhọc nhằn đã rèn dũa nghị lực, tạo nên bản lĩnh để con người có ý chí hơn, trưởng thành trong thách thức, vượt qua khó khăn cuộc sống".
Cũng vì đã quá quen với nhọc nhằn, lam lũ mà có thứ rau đắng đã thành thức ăn quen thuộc, quen thuộc đến nỗi không còn nhận ra vị đắng của nó. Đó là vị đắng của cây lằng, một loài cây tự nhiên, mọc hoang ở vùng núi, bên những sườn dốc, bờ suối vùng đất xứ Nghệ.

Lần đầu tiên tôi được nếm bát canh lá lằng không phải ở quê hương của loài cây này, mà ở Hà Nội. Biết cha tôi thích món canh lá lằng, những người bà con trong quê đã vào rừng tìm hái mang về thái nhỏ, phơi khô, bọc gói cẩn thận rồi gửi xe khách ra cho cha tôi.
Bát canh lá lằng khô được cha tôi chế biến rất đơn giản. Tép đồng tươi hoặc tép khô phi với mỡ hành, không có cà chua bi mà quê tôi còn gọi là cà kiu thì sốt với cà chua thông thường. Sau khi cà chua đã được sốt nhuyễn thì đổ nước đun sôi rồi thả lá lằng vào, là có bát canh lá lằng.
Tôi nếm thử một chút canh lá lằng và thú thật, không thể nuốt nổi vì vị đắng. Ngày đó, tôi còn nhỏ tuổi, chưa quan tâm đến cảm xúc của người khác. Mặc cho cha tôi hết lời quảng bá về lá lằng là một loại cây thanh khiết, được mọc tự nhiên trong rừng nên không có thuốc trừ sâu.
Cây lằng là một vị thuốc, có tác dụng thanh mát, giải độc, kích thích tiêu hóa, nhuận gan, có lợi cho sức khỏe. Ông nói để chúng tôi đổi ý mà ăn cùng ông. Chắc cha tôi buồn vì bát canh quê không được chúng tôi đón nhận. Sau này, mỗi khi muốn ăn, ông chỉ nấu một bát nhỏ cho riêng mình.

Cha tôi mất đã nhiều năm. Một hôm dọn nhà, tôi phát hiện gói lá lằng phơi khô được cha tôi cẩn thận cất kĩ trên gác bếp. Quê tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá, chả có đặc sản gì nổi trội để ai đó mỗi dịp ghé qua mua về làm quà. Nhưng với cha tôi, gói là lằng khô ấy chính là món quà quê đáng giá, bởi nó gói gém cả tình thân tộc, gói cả những ngọt bùi của một thời tuổi trẻ, để rồi, dù có bôn ba lập nghiệp xứ người, vẫn không quên được cái hương vị chân tình mộc mạc của quê hương.
Biển gọi hè về, gọi mùa cá trích với những chuyến biển đầy khoang. Tại những khu chợ quê tôi mùa này đâu đâu cũng hàng cá trích nướng trên than ta vàng ươm. Trong những quán ăn bình dân hay những bữa cơm đãi khách, người quê tôi nhâm nhi chén rượu quê, mời nhau món cá trích nướng cuốn với lá lằng tươi chấm với mắm tôm hay mắm ruốc, nhưng ngon hơn cả là chấm với nước mắm truyền thống được sản xuất từ làng nghề miền biển xứ Quỳnh.

Cá trích gỡ xương, lọc lấy thịt, nấu cùng với lá lằng, ăn với cà pháo trắng giòn tan thì ngon tuyệt! Ngoài ra, lá lằng còn có thể xào với lòng lợn, lòng dê, tạo ra một hương vị rất riêng, độc đáo. Khi nhai lá lằng, ban đầu ta cảm nhận có vị đắng nhẹ nơi đầu lưỡi, nhưng càng nhai kĩ càng cảm thấy vị ngọt bùi của lá. Đó là sự hồi đáp thử thách lòng người của một loài cây dân dã, hay là một thông điệp truyền đi triết lý cuộc đời?!
Lá lằng bây giờ không chỉ là món ăn tự cung tự cấp ở quê tôi mà nó đã trở thành một sản phẩm hàng hóa. Còn rừng là còn cây lằng. Người dân ở một số huyện của tỉnh Nghệ An như Quỳnh Lưu, Anh Sơn, Thanh Chương, Đô Lương, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn rủ nhau vào rừng hái lá lằng tươi về bán cho các thương lái để họ chế biến thành lá lằng khô, đóng gói và mang đi tiêu thụ. Trên các trang thương mại điện tử cũng thấy rao bán lá lằng khô, có lẽ để phục vụ những người con xa quê như cha tôi và cả những người yêu thích món ăn dân dã của người dân xứ Nghệ.
Bây giờ ăn lá lằng, tôi không còn cảm giác đắng như ngày trước. Có lẽ, cái gốc gác xứ Nghệ, cho dù không được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy, nhưng nó ẩn sẵn trong dòng máu, trong huyết thống, giúp tôi cảm nhận rõ hơn hương vị ngọt ngào của quê hương mình.
Có một người con luôn tự hào về bố, bởi bố từng là một chiến sĩ giải phóng quân, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thời bình, bố là một cựu chiến binh cần mẫn với công việc đời thường và luôn gương mẫu trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Mỗi khi đến ngày lễ 30/4, người con ấy lại nghĩ nhiều về bố, về giá trị của cuộc sống hòa bình.
Tròn 50 năm non sông thu về một mối, người dân từ Đất Mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cái được hân hoan sống trong độc lập, tự do. Tháng Tư, nhớ lại câu chuyện đã được nghe trong chiến tranh và hòa bình, thấy thêm yêu “Nước của những người không bao giờ khuất”.
Đất nước mình có rất nhiều những dòng sông. Nhưng chắc chắn, trong thời hiện đại, không một dòng sông nào phải chứng kiến nỗi đau chia cắt như dòng Bến Hải. Những ngày tháng 4 lịch sử này đánh dấu tròn nửa thế kỷ đất nước thống nhất, cây cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải giờ đây chỉ còn là chứng tích cho một thời mất mát, đau thương.
Trưa nay, ngồi ăn cơm cùng các anh chị đồng nghiệp, câu chuyện rôm rả xoay quanh dịp lễ 30/4 sắp tới. Ai cũng háo hức chia sẻ dự định, ai cũng mong chờ một kỳ nghỉ thật đặc biệt – không chỉ vì được nghỉ, mà bởi đây là một ngày có ý nghĩa rất thiêng liêng đối với dân tộc Việt Nam.
Sau cái rét nàng Bân, Hà Nội lại bắt đầu bước sang một mùa kỳ lạ khác trong năm, gây cảm giác khó chịu dai dẳng, đó chính là mùa nồm.
Mọi sự sống trên đời này suy cho cùng đều phấn đấu hướng đến nơi có nhiều ánh sáng để trở nên mạnh mẽ, tốt đẹp hơn. Dù cho có trải qua bao nhiêu chông gai thử thách, chỉ cần ta không bỏ cuộc thì ánh sáng luôn ở cuối đường hầm.
0