Tiệm vải của mẹ
Mẹ tôi sớm mặn duyên với nghề vải, từ thời con gái mười chín, đôi mươi cho tới hiện tại đã ngoài ngũ tuần, ngót nghét cũng được mấy mươi năm.
Ngày còn bé, tôi vẫn thường tha thẩn chơi đùa quanh cửa hàng của mẹ. Khi thì tôi nghịch ngợm quấn vải quanh mình giả làm tiên nữ, lúc tôi lại xin mẹ ít mảnh vụn đủ màu rồi dùng bấm kim làm quần áo đơn giản cho búp bê nhưng phần lớn thời gian, tôi hay núp mình trong khe nhỏ tạo thành giữa hai hàng cũi, lặng lẽ thu vào đáy mắt nỗi khó khăn, nhọc nhằn của mẹ.
Phận đàn bà ra ngoài bươn chải nào có dễ dàng…

Mang tiếng bà chủ nhưng để tiết kiệm chi phí, cả tiệm chỉ có mình mẹ tôi tất bật quán xuyến. Cửa hàng không nhỏ, mặt tiền cũng thoáng nhưng những chỗ râm mát, đẹp đẽ nhất, mẹ đều dành hết cho vải vóc, còn bản thân lại phơi đầu dưới mưa nắng khắc nghiệt. Làm buôn bán nhỏ lẻ hơn nhau ở thái độ với khách nên việc phải hết lòng đón tiếp những khách hàng khó tính nhất, hay nhiều khi phải dọn hàng từ sớm tinh mơ khi chợ mới lác đác bóng người, chờ khách hẹn tới tận cuối chiều khi trời đã mờ mịt tối cũng là chuyện thường gặp.
Tôi nhớ có một trưa hè nắng như đổ lửa, hai bên thái dương và lưng áo mẹ sũng sượt mồ hôi tưởng như có thể vắt cả ra nước. Ấy vậy mà mặc cho cổ họng khô khan, mẹ vẫn kiên nhẫn chào đón hết lượt khách này đến lượt khách khác. Lúc thì mẹ khéo léo giới thiệu mẫu vải mới, lúc lại quay sang thoăn thoắt đo đạc, cắt xé.
Tiếng chuyện trò rôm rả, tiếng mặc cả qua lại, tiếng kéo sắt lướt thật ngọt trên những thước vải lấn át cả tiếng ve râm ran trong tán bàng trước cửa. Mãi tới hai, ba giờ chiều, khách vãn, mẹ mới được nghỉ ngơi. Tôi bưng lên âu vối đá, mẹ nhận lấy uống liền mấy ngụm thay bữa trưa đã nguội ngắt, vừa cười vừa nói với tôi hôm nay trộm vía đắt hàng, sẽ cho tôi đi nhà sách mua truyện tranh mới.
Nắm bàn tay chai sần vì thường xuyên cầm thước, cầm kéo, nhìn vẻ mặt mẹ hoan hỉ nhưng bơ phờ, ngả đầu vào tấm lưng vương mùi chua nhẹ của vải vóc và mằn mặn mùi mồ hôi của mẹ, tôi thấy hốc mắt cay xè.
Phải tận mắt chứng kiến sự vất vả của mẹ, tôi mới hiểu vì sao các cô, các bác hay nửa đùa nửa thật nói rằng tôi may mắn được sống trong lụa là gấm vóc. Tôi đúng là đã lớn lên trong nhung lụa, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Từ ngày còn bé cho tới ròng rã sáu, bảy năm du học nước ngoài, tôi vẫn luôn được mẹ chăm lo, chu cấp đủ đầy bằng từng đồng chắt chiu từ tiệm vải.
Nhà tôi neo người, sức lao động chính vẫn luôn là mẹ nên một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, trừ mấy ngày Tết, mẹ chẳng dám nghỉ ngơi, dù nắng nóng hay mưa rơi, chợ đông hay chợ ế, thậm chí là ốm đau bệnh tật. Thi thoảng trời trở gió, đài báo có giông mà mẹ chẳng chịu nghe khuyên, vẫn cứ khăng khăng dậy sớm dọn hàng rồi ngồi vò võ tới tận chiều tối khi nhiều cửa hàng khác đã kéo cửa.
Tôi trách mẹ tham công tiếc việc khiến người nhà phải lo lắng. Mẹ bảo nghỉ chợ một hôm là mất không tiền thuê một ngày, mẹ cố chấp kiên trì vì biết đâu ngồi mãi lại có khách vãng lai, may mắn có khi đỡ được tiền ăn một bữa.
Năm nay tôi đã gần 30, mẹ cũng đã ngoài ngũ tuần nhưng tiệm vải vẫn đều đặn buôn bán, một phần vì tôi chưa đủ bản lĩnh khiến mẹ yên lòng nghỉ ngơi, một phần vì mẹ không quen nhàn rỗi. Cả đời mẹ gần như gắn liền với tiệm vải, tuy mệt nhọc nhưng mẹ vẫn vui. Vui vì có thể lo cho gia đình một cuộc sống ấm no, lo cho đứa con gái một tương lai rạng ngời và rộng mở, không phải vì miếng cơm manh áo mà phơi mặt ngoài đường, mà nhún nhường chỉ để cóp nhặt một hai đồng lời lãi.
Năm tháng lướt qua khe cửa, những cũi, những giá trong cửa hàng mẹ tôi vẫn chồng chất đủ loại vải vóc. Có loại nhẹ bẫng như voan, như lụa, cũng có loại dày nặng như dạ, như len. Chúng cuộn thành từng cuốn, xếp thành từng chồng, đè trĩu gánh nặng lên vai mẹ tôi nhưng lại dịu dàng ấp ôm, bao bọc tôi trong một tuổi thơ rực rỡ, vô lo. Cửa tiệm của mẹ nơi tần tảo đọng lại trong giọt mồ hôi rơi, nơi yêu thương dệt nên từ vô vàn thước vải chính là cội nguồn sức mạnh giúp tôi dang cánh bay thật cao, thật xa.


Không biết từ bao giờ, Hà Nội luôn có những cuộc hẹn với các loài hoa. Và cũng không biết từ bao giờ, có người yêu các loài hoa ấy như chính tình yêu đối với Hà Nội.
Theo thời gian, có người dần hiểu ra rằng sẽ không bao giờ có thể tìm thấy một người hoàn hảo trong mắt mọi người xung quanh. Cô bắt đầu học cách chấp nhận chính mình giữa một thế giới vô vàn những điều không hoàn hảo. Và cô nhận ra rằng: yêu thương bản thân chưa bao giờ là đủ.
Thời gian là thứ công bằng nhất mà cuộc sống ban tặng cho mỗi con người. Nhưng có lẽ, điều đáng sợ nhất về thời gian không phải là nó cứ trôi đi mà chẳng chờ đợi ai, mà chính là việc nó có thể đưa mọi thứ vào lãng quên.
Năm nay thời tiết thật lạ kỳ. Giữa tháng Tư mà vẫn đợt gió mùa, trời trở lạnh. Cái rét nàng Bân chạm tới đầu hè…
Tháng Tư chạm ngõ, mang theo những tia nắng đầu hạ vàng ươm như mật ong rót xuống từng tán cây. Nắng nhẹ nhàng, chưa gay gắt, chỉ đủ để hong khô những giọt sương còn vương trên lá, đủ để làm bừng sáng những con đường ngập tràn hoa cỏ.
Có người chạm khẽ Hà Nội lần đầu vào một mùa hạ nóng rực lúc vừa kết thúc năm ba đại học. Với tính cách thích là nhích, hành trang ngày ấy của cô ngoài ví tiền thì chỉ còn vỏn vẹn một mảnh nhiệt huyết xê dịch cháy bỏng. Trong tưởng tượng của cô sinh viên Sài Gòn khi đó, Hà Nội là một khái niệm lạ lẫm vô cùng.
0