Hồi ức “Đại tướng Võ Nguyên Giáp đường tới Điện Biên Phủ” (phần 2) – Hữu Mai
22/04/2024, 20:00


An trở về căn phòng của mình lúc thành phố đã lên đèn. Không gian quen thuộc mở ra một nếp sống luôn gọn gàng, ngăn nắp đến mức gần như lạnh lẽo. Ở đây, cô được là chính mình, không phải vào vai người con dâu gương mẫu, cũng chẳng phải là người giám đốc điềm tĩnh thường ngày. Trong căn phòng nhỏ, An tự cho phép mình yên lặng nghe một bản nhạc không lời và thở theo nhịp thở của chính mình.
Ở phần này, tác giả đã nêu bật quan điểm của An dù truyền thống kính trên nhường dưới có phần đẹp nhưng nó cũng tạo ra tâm lý thụ động, bóp nghẹt cá tính, tư duy phản biện và quyền được lựa chọn của giới trẻ. Cô nhấn mạnh việc nhiều người Việt nhầm lẫn giữa lễ phép và sự phục tùng mù quáng.
Về nhà lúc đêm khuya, Thương lại trở về đúng với con người cẩn trọng, tiết kiệm và ngăn nắp của mình. Dù trong lòng vừa có chút hả hê sau khi dạy dỗ được vợ chồng người chị họ vô tâm với đứa cháu mà cô hết mực yêu thương thì cảm giác ấy cũng nhanh chóng bị xua đi bởi một nỗi lo thường trực.
Tác giả tiếp tục khắc họa sâu sắc tâm lý của nhân vật Hiền Thương - người phụ nữ thuộc tầng lớp trung lưu cũ, tằn tiện, luôn mang mặc cảm nghèo khó, sống trong nỗi ám ảnh về tiền bạc và khao khát vươn lên nhưng không bao giờ thấy đủ đầy.
Hiền Thương luôn cảm thấy cuộc đời mình quá đỗi thiệt thòi và bất công. Suốt đời tằn tiện, chăm chỉ học hành nghiêm túc, sống lương thiện nhưng vẫn nghèo khổ. Trái lại, những người cô cho là học tủ, lười nhác như em gái Thuận Ái lại giàu sang, sung túc, có chồng làm quan to, sống ở biệt thự cao tầng, sở hữu ô tô cao cấp. Cô cho rằng chính sự hưởng hết lộc của Ái đã khiến phần đời cô trở nên bất hạnh.
Hiền Thương - người con gái trong gia đình ông bà Bình Bằng là người sống nguyên tắc, kỹ tính đến mức khắc khổ, luôn tằn tiện trong từng sinh hoạt nhỏ. Cô căm ghét sự hào nhoáng, phô trương của những biệt thự cao tầng, xe sang bóng loáng, những thứ mà cô xem là biểu tượng của sự tham nhũng và bất công.
Ông Bình chính thức đọc di thư trước mặt con cháu. Đây là tâm nguyện sâu xa của ông và người vợ quá cố gửi gắm tới thế hệ sau bằng tất cả tình yêu thương và đạo lý gia đình. Ông Bình nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tập suốt đời, xem tri thức và lòng nhân ái là tài sản quý báu nhất mà con người có thể mang theo suốt cuộc đời.
Câu chuyện tiếp tục diễn ra trong ngày giỗ của bà Bằng. Trong bữa cơm gia đình, mọi người quây quần, trò chuyện vui vẻ, không ngớt lời khen ngợi tài nấu ăn của An, cùng câu chuyện xoay quanh việc học hành và bằng cấp tiến sĩ.
Đầu hè năm 2013, gia đình An trở về ngôi nhà quen thuộc để chuẩn bị cho buổi giỗ mẹ. Không gian yên ắng chỉ thoáng tiếng chim hót và mùi hương trầm nhẹ nhàng lan tỏa khắp sân nhà. Bốn chị em An và ông Bình - người cha già ngồi bên mâm cơm dọn sẵn, tâm sự về những ngày đã qua.
Phần hai của câu chuyện mở ra bằng một mùa Tết đặc biệt: lần đầu tiên cả nhà quây quần bên nhau gói bánh chưng như một cột mốc giản dị mà thiêng liêng, đánh dấu sự sum họp. Nhưng cũng từ đây, những biến cố bắt đầu kéo đến làm xáo trộn cuộc sống gia đình tưởng chừng như đã bình yên ấy.
Cuốn tiểu thuyết kể về gia đình ông bà Bình Bằng có bốn cô con gái: Hiền Thương, Thuận Ái, Khánh An và Bảo Yên. Mỗi cái tên đặt cho con đều được gửi gắm những mong ước đẹp đẽ, nhưng mỗi người trong vũ trụ tứ nữ đó lại có một số phận không yên ả, khi tính cách họ được đẩy lên đến tận cùng thậm chí đến mức cực đoan. Trong cuốn tiểu thuyết dày hơn 600 trang của mình, tác giả muốn gửi gắm một thông điệp chính là sự bất bình khẳng định cơ hội vì văn hóa thân tộc, một người làm quan cả họ được nhờ.
Hình ảnh Nguyễn Tất Thành đứng trên boong tàu Latouche Tréville, ánh mắt hướng về quê hương đang dần khuất xa khắc họa một bước ngoặt lớn trong cuộc đời cậu. Đó không chỉ là cuộc chia ly giữa cha và con, mà còn là sự khởi đầu cho hành trình tìm đường cứu nước đầy gian nan và thử thách. Dưới ánh nắng chói chang của Sài Gòn, cậu thanh niên mang tên Nguyễn Văn Ba đã quyết tâm rời xa mái ấm gia đình, tạm xa quê hương đất nước mang theo những bài học quý giá từ người cha yêu nước để dấn thân vào con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Từ đây, người thanh niên mang tên Nguyễn Văn Ba sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc hành trình vĩ đại viết nên một trang sử mới đầy vinh quang cho đất nước Việt Nam ta.
Ở phần này diễn ra cuộc hội ngộ bất ngờ giữa Thành và người bạn cũ Diệp Vân Kỳ, con trai một thông ngôn từng phục vụ vua Thành Thái. Sau một hồi hỏi han tâm sự, cuộc gặp kết thúc trong cái bắt tay đầy lưu luyến, nhưng cũng thắp lên trong lòng cả hai một niềm vui khó gọi thành tên. Trước khi chia tay, Thành và Kỳ hẹn nhau sáng hôm sau tại chợ Bến Thành.
Sự việc thầy giáo Thành đột ngột rời khỏi trường Dục Thanh khiến học trò bàng hoàng, không ai biết lý do cụ thể mà chỉ nhận được một bức thư chia tay. Thực chất, Thành ra đi bí mật vì lo ngại bị đàn áp. Phong trào Dục Thanh bắt đầu bị theo dõi và đe dọa xóa sổ. Trên chuyến tàu từ Phan Thiết vào Sài Gòn, Thành mang theo giấy thông hành giả cùng thư giới thiệu, quyết tâm bước vào một hành trình mới.
Rời Quy Nhơn, Côn quyết định vào Nam đến Phan Thiết - nơi anh bắt đầu cuộc sống mới với vai trò thầy giáo tại trường Dục Thanh. Trường này do các chí sĩ yêu nước thành lập nhằm giáo dục thanh niên theo tư tưởng mới. Tại đây, Côn dạy học, dạy thể dục, truyền cảm hứng yêu nước cho học trò, đồng thời ấp ủ khát vọng lớn lao góp phần thay đổi xã hội. Đây là bước ngoặt quan trọng đưa Côn tức Nguyễn Tất Thành ngày ấy bước vào con đường hoạt động cách mạng sau này.
Chỉ hơn một tháng sau khi ông Sắc bị bắt, Côn và vợ chồng thầy Thọ nhận được tin ông đã được tại ngoại nhưng bị giám sát, sống ẩn dật ở một ngôi chùa nhỏ phía Tây thành phố và tự chữa bệnh bằng nghề y mà ông từng học. Dân Bình Khê vẫn tiếp tục gửi đơn xin minh oan cho ông.
Tạ Đức Quang - một điền chủ giàu có, tự mãn quen được ưu ái, đã đến gặp ông Sắc để nộp đơn kiện dân xã vì lấn chiếm đất. Tuy nhiên, ông Sắc nghiêm khắc giữ đúng phép công đường, yêu cầu tôn trọng quy trình và đối xử công bằng, không thiên vị. Dù vậy, ông vẫn nhận đơn sau khi Tạ Đức Quang rời đi. Ông Sắc cho thử phái kiểm tra và quyết định sẽ đích thân xuống xã điều tra, thể hiện thái độ quyết liệt, không để thế lực nào bẻ cong sự thật.
Khiêm lên đường trở về quê cùng một đoàn lái buôn. Buổi chia tay diễn ra giản dị bên bờ sông Hương với sự có mặt của Quý, Phượng và một vài người bạn thân. Côn lặng lẽ tiễn người anh trai của mình, chẳng thể ngờ rằng đây chính là lần gặp cuối trong đời và hai anh em vĩnh viễn chia xa.
Bối cảnh đầu năm 1909 khi phong trào Đông Du chính thức tan rã, sau khi Pháp bắt tay với Nhật và yêu cầu trục xuất các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Tin dữ khiến ông Sắc vô cùng đau buồn. Ngay sau đó, ông được bộ lễ yêu cầu vào Quy Nhơn chấm thi hương. Trước khi đi, ông cùng hai con Khiêm và Côn có cuộc trò chuyện cảm động.
Cuối năm 1907, tin Vua Thành Thái bị truất ngôi lan rộng. Một cậu bé tám tuổi - vua Duy Tân được lập lên thay. Trong khi đất nước rối ren, anh em Côn và Khiêm vẫn nỗ lực học tập và cùng các bạn trẻ tham gia phong trào Duy Tân, vận động cắt tóc, bỏ hủ tục răng đen, mặc quần áo mới để thức tỉnh tinh thần dân tộc.
Một buổi sáng sớm năm 1907 đầy biến động, sau một đêm thức khuya trò chuyện với ông Phạm Khắc Doãn về thời cuộc, ông Sắc được gọi đi làm sớm với yêu cầu mặc thẩm phục đầy đủ. Không khí trong kinh thành Huế bỗng chốc trở nên căng thẳng khi quân Pháp và binh lính thuộc địa diễu hành rầm rập khắp nơi. Trong lớp học, thầy trò đều bàng hoàng vì một biến cố lớn đang âm thầm xảy ra.
Ông Sắc gặp lại ông Đặng Thái Thân - một người bạn cũ cũng là người được cụ Phan Bội Châu cử đến vận động cho Côn sang Nhật du học. Trên một chiếc thuyền nhỏ có đàn hát, hai người trò chuyện, ông Thân truyền đạt tâm ý của cụ Phan và những người đồng chí mong ông Sắc cho Côn đi Nhật để theo đuổi con đường cứu nước.
Tại Làng Sen, Thanh cùng các cô gái trong xóm chăm chỉ học chữ Quốc ngữ như một phong trào tự học. Họ học để biết viết, để có thể viết thư cho người thân và để không bị coi thường trong xã hội. Trong lúc ấy, ông Đội Quyên, một cán bộ cách mạng bất ngờ ghé thăm nhà ông Sắc. Cuộc gặp gỡ giữa ông và Thanh diễn ra bí mật, nhanh chóng nhưng đầy xúc động.
Thành phố Huế dường như bừng tỉnh sau một mùa hè dài với không khí tươi mới và nhộn nhịp. Cổng trường chào đón học sinh, phụ huynh và thầy cô, mỗi người đều mang trong mình một câu chuyện riêng, một dáng vẻ khác biệt phản ánh những lớp xã hội đa dạng. Côn tuy háo hức nhưng cũng đầy trăn trở khi đối diện khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái.
Trong một buổi sáng sớm, bên dòng Hương Giang, những người bạn trẻ: Hùng, Côn, Khiêm, Cần, Phượng, Quý và Diệp Văn Kỳ lại hẹn nhau rong chơi nhưng không chỉ để ngắm cảnh hay vui đùa. Mỗi bước chân, mỗi lời nói của họ đều mang theo những khát vọng thầm kín, những hoài bão đang lớn dần trong một giai đoạn đầy biến động của đất nước. Những câu chuyện tưởng như chỉ để giải khuây dần hé mở tâm thế của cả một thế hệ thanh niên đang thao thức trước vận mệnh dân tộc. Trong tiếng cười trong trẻo, trong giọng hát ngọt ngào của thiếu nữ xứ Huế và cả trong ánh mắt rực sáng của người bạn tên Côn thấp thoáng hình hài một tương lai mà họ đều đang chờ đợi, đang muốn góp phần đổi thay.
Ông Nguyễn Sinh Sắc cùng hai con trai là Khiêm và Côn chuẩn bị vào Huế nhận chức quan do triều đình bổ nhiệm. Cô Thanh được giao ở lại quê nhà để trông coi nhà cửa, ruộng vườn và hương hoả. Ông Sắc xúc động, day dứt vì những thiệt thòi mà đứa con gái của ông phải chịu đựng. Giữa lúc chuẩn bị lên đường, một tin dữ lan truyền khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp bắt, kinh thành Huế có biến.
Khoảng thời gian tháng 9 năm 1905, Côn và Khiêm được gửi lên Thành Vinh theo học Trường Tiểu học Pháp Việt. Trong buổi khai giảng đầu tiên, cả hai choáng ngợp trước không khí trang trọng và bài diễn văn ca ngợi nước Pháp với ba khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái". Những lời lẽ ấy khiến Côn băn khoăn khi so với thực tế, đất nước vẫn đang bị đô hộ. Vào lớp, cậu nhanh chóng bộc lộ khả năng vượt trội khiến cô giáo không khỏi bất ngờ và tính đến việc chuyển cậu lên lớp trên.
Đầu thế kỷ XX, giữa thời cuộc đảo điên khi lòng người phân tán và kẻ sĩ chia đôi ngả vẫn có những bước chân lặng lẽ chọn đi ngược dòng xu thế để giữ lấy chí khí. Ở một căn nhà nhỏ nơi đất khách, ông Sắc bộc lộ mong muốn rời nơi trú ngụ tạm thời để tiếp tục cuộc hành trình học hỏi, kết giao, tìm đến những sĩ phu cùng chí hướng trải dài khắp ba kỳ đất nước. Côn nay đã lớn, không giấu nổi sự háo hức trong ánh mắt cậu bé. Những chuyến đi không chỉ là cơ hội mở mang tri thức mà còn là con đường nối dài lý tưởng mà cha và các bậc tiền bối như cụ Phan Bội Châu đã từng theo đuổi.
Sau một hành trình dài, Khiêm và Côn đặt chân đến nhà ông bà Tưởng. Tại đây, họ được đón tiếp bằng tất cả sự nồng hậu và chân thành. Ông Tưởng quý Côn bởi sự lễ phép, điềm đạm và tài chơi cờ khiến bao người nể phục. Dân làng cũng dành cho cậu bé một ánh mắt thiện cảm vì cách cư xử luôn đúng mực và chừng mực hơn tuổi. Những tưởng có thể ở lại lâu hơn để cùng cha yên ổn sống những ngày tháng thanh bình nhưng một linh cảm chẳng lành khiến ông Sắc luôn bồn chồn nóng ruột. Hiểu được nỗi lo của cha, Côn đã rủ anh trai quay về thăm nhà, nơi dường như đang có điều gì đó bất ổn chờ họ ở phía trước.
Tình hình ở làng Sen vẫn diễn ra phức tạp khi người đi cửa rào trở về với thân thể bầm dập, mắt không còn ánh nhìn, có nhà chẳng thấy con em đâu nữa. Không khí u ám nặng nề bao trùm từng nếp nhà, từng bữa cơm của người dân. Giữa lúc đó, triều đình cử giấy mời ông Sắc nhậm chức quan phó bảng. Trong cảnh khó khăn, vinh dự ấy như ánh sáng le lói giữa đêm tối, không chỉ là niềm tự hào của riêng gia đình ông mà còn là niềm an ủi hiếm hoi cho cả làng Sen.
Côn và bạn Võ Cung sau khi mua một cuốn sách Nam sử yếu lược đã cùng đọc và ghi nhớ những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc. Tuy nhiên, khi Côn về nhà và nói dối với cha về việc không mua được sách, ông Sắc tỏ ra nghi ngờ và yêu cầu Côn phải tóm tắt những gì học được. Khi con thể hiện trí nhớ và sự biết ơn, ông Sắc đã cảm thấy ngạc nhiên và khen ngợi con trai mình.
Sau buổi chia tay thầy Cử Quý, người thầy dạy chữ đầu tiên của ba anh em Côn, một hành trình học hành mới lại mở ra. Dưới mái nhà của ông Sắc, những câu chuyện gia đình, ký ức tuổi thơ và tình yêu thương được đan xen tinh tế trong từng chi tiết đời thường. Từ việc sửa bếp, sang bà ngoại chơi đến những buổi thêu dệt bên khung cửi. Qua những lát cắp ấy người đọc không chỉ cảm nhận được nếp sống giản dị, nề nếp trong một gia đình nhà Nho xưa mà còn thấy rõ tấm lòng hiếu thảo và sự trưởng thành sớm của cậu bé Côn.
Từ thuở còn thơ, những đứa trẻ con ông Nguyễn Sinh Sắc không chỉ lớn lên bằng từng con chữ, mà còn được nuôi dưỡng bởi những câu chuyện, từng lời dạy đầy ẩn ý và nhân nghĩa của cha. Phần hai của tiểu thuyết "Cha và Con" sẽ mở ra một bức tranh ấm cúng của tình thân và cũng đầy khát vọng về con đường cứu nước.
Với tiểu thuyết "Cha và Con", nhà văn Hồ Phương đã đi vào một góc độ hoàn toàn mới về Bác Hồ. Nhà văn đã thể hiện được con người vừa giản dị, vừa vĩ đại của Bác mà lại không bị trùng lặp trong phong cách, lối dẫn dắt với các tác giả khác.
Chiến tranh không chỉ là tiếng súng và khói lửa mà còn là những lặng im trong tâm khảm người lính, nơi ký ức, nỗi đau tình thương dồn nén qua năm tháng. Sau chiến dịch, trung đoàn của Kinh tiến về vùng trung du và đó cũng là lúc ông có dịp trở lại mái nhà xưa, nơi người con trai nhỏ nay đã không còn.
Đơn vị chiến đấu mới thành lập mang tên Chi đoàn Đồi không tên gồm những đoàn viên từ nhiều đơn vị khác nhau dưới sự chỉ huy của các chiến sĩ như Cận, Hoạt. Họ giữ vững tinh thần chiến đấu bất chấp những trận oanh tạc dữ dội và lời kêu gọi hàng ngũ từ phía địch. Trong những giây phút ác liệt ấy, sự gan dạ phối hợp nhịp nhàng, khả năng phản công nhanh chóng của tiểu đội đã khiến địch thiệt hại nặng nề.
Giữa lòng chiến trường Khe Sanh khốc liệt, hai con người, hai người cha - ông Phang và Chính ủy Kinh tình cờ gặp lại nhau. Một người lặng lẽ nhịn đau, một người âm thầm chia sẻ. Trong đêm trăng lạnh, khi chiến hào còn đầy tiếng súng, cuộc trò chuyện giữa họ hé lộ một góc nhìn khác về chiến tranh, không phải chỉ là bom đạn mà còn là những vết thương không máu chảy giữa tình thân nghĩa nước và lòng người.
Cụ Phang, một người cha gầy gò nhưng rắn rỏi, người cán bộ tận tụy giữa vùng giải phóng, nhưng đâu ai ngờ rằng trong lòng ông lại có một nỗi đau âm ỉ khó gọi tên - đó là đứa con trai duy nhất của ông đi lính cho Mỹ. Cụ Phang mang ý định giết đứa con phản bội như một cách tự trừng phạt mình.
Khói lửa khốc liệt của chiến trường Quảng Trị năm 1972 là bức tranh dữ dội nhưng đầy xúc động về cuộc sống nơi tuyến lửa, từ những cơn mưa bom dải thảm tàn khốc trên Đồi 47 đến sự gan dạ kiên cường của những người lính trong lòng đất, xen giữa đó là những mảnh ký ức đẹp đẽ về mối tình đầu của Lữ. Giữa khói lửa chiến tranh, tình yêu và lý tưởng vẫn luôn hiện hữu dịu dàng mà mạnh mẽ.
Tác giả tiếp tục khắc họa sâu sắc nội tâm và những trải nghiệm chiến trường của Lữ. Anh gặp lại Hiền, cô gái từng quen biết thời học sinh nay là nữ văn công nhưng lại bối rối, ngượng ngùng, không dám bắt chuyện. Suốt bữa cơm chung và những ngày sau, anh bị chi phối bởi sự tự ái kỳ lạ, không thể vượt qua rào cản quá khứ. Trên đường hành quân, Lữ cảm nhận sự thay đổi trong tâm hồn mình, từ một chiến sĩ xốc nổi thành người trầm lặng, chín chắn hơn. Sau những chiến trận sinh tử, anh cũng dần hiểu và quý mến những người đồng hành.
Trong những trang nhật ký nhòe mực và chi chít nét bút chì, người lính trẻ Lữ đã kể lại những khoảnh khắc khắc nghiệt và đầy cảm động nơi chiến trường. Giữa núi rừng miền Trung khốc liệt, tình bạn, lòng quả cảm và nỗi đau chiến tranh đan xen thành một mạch cảm xúc day dứt. Một trong những người bạn chiến đấu để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong lòng anh chính là Kim - chàng trai người Vân Kiều có đôi mắt sáng, giọng nói lơ lớ và một quá khứ đau thương sau cuộc càn quét tàn bạo của quân Mỹ.
Sau những giờ phút im lặng nặng nề trong cuộc họp Đảng ủy, sự chân thành, thẳng thắn của các đảng viên đã làm nên một không khí kiểm điểm đầy trách nhiệm. Ở đó, người ta không ngại đối diện với mình, với sự dao động trong tư tưởng, với nỗi băn khoăn giữa tiến và lui trong cuộc chiến giằng co từng tấc đất. Tiểu đoàn trưởng Vượng - người từng xông pha nơi mũi nhọn đột kích, lần đầu tiên công khai tự nhận ra sự thiếu kiên trì, một sự dũng cảm khác im lặng mà không kém phần quyết liệt.
Một buổi sáng mùa xuân, Lữ cùng đồng đội lặng lẽ đặt những bông hoa dại lên nơi hai chiến sĩ đã hi sinh để bảo vệ anh và chiếc đài vô tuyến điện. Trong khoảnh khắc lặng thinh ấy, Lữ mở ba lô cũ của Đàm - người lính luôn mang vẻ lạc quan yêu đời nhưng giờ lại không để lại dấu tích gì ngoài vài câu thơ sinh hoạt giản dị mà đau đáu. Rời khe núi mang theo ký ức không thể xóa nhòa, Lữ bước đi giữa âm vang tiếng pháo, tiếng bom và màn sương bảng lảng nơi biên giới.
Lữ ngất đi trong một khe núi sâu sau trận chiến khốc liệt. Khi tỉnh dậy, anh như đi lạc trong hư vô, mất hoàn toàn cảm giác về thời gian, không gian thậm chí cả ý thức về sự tồn tại của chính mình. Chính lúc ấy, người đồng đội thân thiết là Cật đã tìm thấy và giúp anh dần khôi phục. Khi nhớ lại trận đánh, Lữ không khỏi bị ám ảnh bởi khoảnh khắc anh bắn hạ một lính Mỹ - giây phút khiến anh giật mình nhìn ra mình đã không còn là một cậu học sinh ngây thơ năm nào mà đã trở thành một người lính thực thụ sẵn sàng chiến đấu.
Trong một lần Lữ để tên địch chạy thoát khiến anh hối tiếc và tự trách bản thân mình, sự cố đó trở thành đề tài trêu đùa trong đơn vị nhưng cũng là chất xúc tác để những người lính trở nên thân thiết hơn. Họ chia sẻ với nhau đủ thứ chuyện. Từ chuyện đánh giặc đến chuyện làng quê, tuổi thơ thậm chí cả những mối tình một thời. Giữa núi rừng cô quạnh, tiếng cười nói và những câu chuyện lính đời thường đã giúp họ giữ vững tinh thần kết nối tình đồng đội bền chặt.
Trên đường hành quân, Lữ tình cờ gặp lại cha - người mà trong ký ức của anh là biểu tượng của sự nghiêm khắc, rắn rỏi, là ngọn núi mà anh vừa ngưỡng mộ, vừa dè chừng. Cuộc gặp gỡ ấy làm sống dậy cả một vùng ký ức. Từ lời mẹ kể, mái tóc bị cắt ngắn ngày bé đến hình ảnh người cha cắm cờ đỏ trên đỉnh núi Hồng, tất cả đan xen dẫn dắt Lữ tới một quyết tâm mới đó chính là trở thành một đảng viên tiếp nối lý tưởng mà cha anh đã chọn.
Ở phần này mở ra một đêm đặc biệt, đêm Xiêm kể cho Lượng nghe tất cả tâm tư. Đó không chỉ là câu chuyện về một người con gái vùng cao đã đi qua nhiều mất mát mà còn là khoảnh khắc hiếm hoi khiến người lính trẻ rung động và bối rối hơn cả khi đứng trước họng súng địch.
0