
Trong nhiều năm qua, xuất khẩu là động lực lớn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào giai đoạn bất định từ đại dịch, khủng hoảng năng lượng đến “đại thương chiến” việc quá phụ thuộc vào xuất khẩu và thị trường bên ngoài đang khiến nền kinh tế đối mặt với nhiều rủi ro.
Chúng ta cần làm gì để tăng nội lực, phát triển thị trường trong nước và tái cân bằng mô hình tăng trưởng?
PV: Với độ mở kinh tế rất lớn, Việt Nam đang đối mặt những rủi ro nào khi phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh thương mại toàn cầu ngày càng bất định như hiện nay?

Tiến sĩ. Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam: Chúng ta có sự phát triển vượt bậc về ngoại thương, về quan hệ thương mại quốc tế trong gần 4 thập niên vừa qua. Điều đó đã mang lại những lợi ích vô cùng lớn cho nền kinh tế: GDP tăng đều đặn, tốc độ cao, lợi ích về an sinh xã hội, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc mở rộng ngoại thương đến mức độ nào đó cũng sẽ gặp những rủi ro.
Hiện nay trong tổng cầu của nền kinh tế, hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu đã tạo ra thặng dư thương mại rất lớn trong khoảng thời gian vừa qua, đóng góp trực tiếp cho mục tiêu tăng trưởng cao của nền kinh tế trong năm vừa qua.
Như vậy nếu xuất khẩu bị suy giảm trước căng thẳng thương mại toàn cầu, trước những hàng rào thuế quan sắp tới sẽ được dựng lên một cách mạnh mẽ hơn thì sẽ tác động,
Thứ nhất là rủi ro liên quan đến tốc độ tăng trưởng GDP, tăng trưởng về cầu của nền kinh tế.
Thứ hai là sẽ tác động gián tiếp khi sản xuất, chế biến cho xuất khẩu, ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của hàng chục triệu người lao động có liên quan đến hoạt động xuất khẩu.
Hiện nay những doanh nghiệp xuất khẩu cũng như những doanh nghiệp cung ứng cho hoạt động xuất khẩu đang tạo việc làm cho hàng chục triệu lao động trên cả nước. Khi xuất khẩu bị suy giảm thì lập tức ảnh hưởng đến việc làm, về sự thiếu việc làm, ảnh hưởng đến an sinh xã hội của những người lao động này.

PV: Vậy đâu là những dấu hiệu cho thấy động lực tăng trưởng dựa vào xuất khẩu đang gặp giới hạn, thậm chí bộc lộ những điểm yếu?
Ông Phạm Minh Thắng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI): Thập niên vừa qua, nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế xuất khẩu. Tỷ trọng xuất khẩu rất lớn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI.
Thứ nhất: Động lực để thu hút doanh nghiệp FDI trong thời gian qua của chúng ta dựa trên giả định về nguồn nhân công giá rẻ. Tuy nhiên, hiện nay động lực đó không còn nữa. Áp lực về thu hút lao động và chính sách của nhà nước, chi phí nhân công đã tăng lên. Chi phí nhân công của chúng ta so với Trung Quốc chiếm khoảng 2/3. Mặt khác, so với các nước khác như Nepal hay Bangladesh hoặc một số nước còn đang phát triển thì chi phí nhân công của chúng ta đã cao hơn rất nhiều. Như vậy, nhân công giá rẻ không còn là một động lực để thu hút FDI và thúc đẩy tăng trưởng nữa. Đó là một điểm quan trọng, đặc biệt là trong công nghiệp và và trong sản xuất.

Chi phí nhân công của chúng ta so với Trung Quốc chiếm khoảng 2/3. Mặt khác, so với các nước khác như Nepal hay Bangladesh hoặc một số nước còn đang phát triển thì chi phí nhân công của chúng ta đã cao hơn rất nhiều.
Thứ hai: Việc dịch chuyển vị trí của doanh nghiệp nội địa trong chuỗi cung ứng toàn cầu rất chậm. Chúng ta vẫn chưa thoát được khỏi vùng gia tăng giá trị thấp của vòng cung về chuỗi giá trị.
Bên cạnh đó, các mục tiêu về tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm xuất khẩu không được nhanh như kỳ vọng. Có rất nhiều ngành, ví dụ như ngành ô tô, ngành điện tử, điện tử tiêu dùng là những cái ngành có tỷ lệ nội địa hóa rất thấp. Một số lĩnh vực mặc dù được coi là nội địa hóa nhưng các linh kiện và bán thành phẩm thì được cung cấp bản thân bởi công ty FDI - không góp phần vào việc phát triển kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của mình.

Thứ ba là sau gần 4 thập kỷ triển khai mô hình kinh tế xuất khẩu với thu hút FDI, tốc độ chuyển giao công nghệ và khả năng hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp cũng rất chậm so với kỳ vọng. Một trong đó là tính lợi thế về mặt quy mô đang gây ra khó khăn. Vì với quy mô nhỏ, ta rất khó để tiếp cận được với các công nghệ mới và công nghệ hiện đại để mà tăng năng lực sản xuất.
Hiện nay, xu hướng của việc tái công nghiệp hóa nền kinh tế đối với Châu Âu, với Mỹ là một xu hướng rõ ràng. Bên cạnh đó, để phục vụ cho việc tối ưu hóa các chuỗi cung ứng, xu hướng về offshoring đang được thay thế dần bởi các xu hướng về nearshoring. Các nền kinh tế tiêu dùng sẽ hướng đến việc kéo các hệ thống sản xuất trở về đất nước, hoặc trở về cái khu vực ở gần đất nước. Đó là một số điểm cho thấy rằng chúng ta cần phải có với góc nhìn mới đối với vấn về xuất khẩu cũng như tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Tiến sĩ. Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam: Về xuất khẩu, có thể thấy những cái giới hạn là rào cản về mặt thương mại như rào cản thuế quan, rào cản kỹ thuật của các thị trường Mỹ, EU và những quốc gia khác, mặc dù các hiệp định thương mại tự do đã được thiết kế và ký kết, nhưng những rào cản thuế quan có thể được dựng lên bất kỳ lúc nào. Chúng ta cũng thấy rằng đó là những giới hạn về mặt của thị trường và tiếp nhận hàng hóa.

Về mặt ở trong nước, có những tiềm năng khác mà chúng ta cần phải khai thác. Ví dụ như những tiềm năng của thị trường ở trong nước, tiềm năng của những thị trường gần chúng ta hơn… tất cả những điều đó cho thấy rằng có những giới hạn mà chúng ta cũng cần phải nhận biết, để thấy rằng ta không nên đi quá xa. Cần phải tận dụng những cơ hội khác, khai thác những tiềm năng khác để phát triển một cách hài hòa, đồng đều hơn.
PV: Việt Nam hiện vẫn bị coi là nơi “gia công cho thế giới” - tức là xuất nhiều nhưng giá trị thực nhận lại thấp? Vấn đề nằm ở đâu.
Tiến sĩ. Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam: Khi chúng ta hội nhập, bắt đầu đổi mới, chúng ta phải chọn bắt đầu một cách hợp lý nhất, không thể đi ngay vào phân khúc cao của chủ đề giá trị toàn cầu được. Chúng ta đã lựa chọn cách tiếp cận sự cung ứng toàn cầu với một phân khúc thấp nhất. Đó là điểm bắt đầu, chúng ta sẽ phải sử dụng những thế mạnh riêng của nền kinh tế Việt Nam vào thời điểm đó, đó là lao động trẻ, và lao động giá rẻ. Một số những tiêu chuẩn về lao động thời điểm đó cũng chưa phải cao như bây giờ. Chúng ta phải chấp nhận một cuộc chơi như vậy để tiếp cận với toàn cầu. Điều đó hoàn toàn hợp lý và đúng đắn, thậm chí rất khôn ngoan của Đảng và Nhà nước của chúng ta vào thời điểm đó.
Chúng ta đã tiếp cận cuộc chơi và đã gia nhập vào cuộc chơi toàn cầu ấy bằng những lợi thế riêng. Ta phải chấp nhận một vị trí, nền kinh tế có giá trị gia tang thấp để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và chúng ta đã rất thành công, để vươn lên từ một quốc gia nhập khẩu thuần túy trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Điều đó là điều chúng ta phải tự hào, mặc dù giá trị gia tăng của chúng ta còn thấp.
Từ một quốc gia nhập khẩu thuần túy Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Điều đó là điều chúng ta phải tự hào, mặc dù giá trị gia tăng của chúng ta còn thấp.

Tuy nhiên hơn 4 thập niên tăng trưởng, hạn chế của chúng ta là chúng ta chuyển dịch dần từ giai đoạn thấp sang chuỗi cung ứng cao hơn còn chậm. Giá như ta làm được nhanh hơn, rút ngắn thời gian, đẩy nhanh được quá trình vươn lên chuỗi cung ứng toàn cầu. Từ Đại hội 11, chúng ta đã nhận biết được điều đó. Và gần đây, Đảng và Nhà nước đã đặt mạnh hơn vào vấn đề đẩy mạnh giá trị gia tăng cho hoạt động xuất khẩu. Và khi chúng ta đã có tầm nhìn như vậy, thời gian tới chúng ta sẽ có những hành động cụ thể để chuyển dịch mạnh mẽ hơn trong hoạt động xuất khẩu, từ đó đưa giá trị gia tăng trong hoạt động xuất khẩu lên cao hơn, không dựa quá nhiều vào kim ngạch xuất khẩu nữa. Ta sẽ sử dụng những giá trị gia tăng đó để khuyến khích đầu tư nước ngoài, để điều chỉnh hoạt động đầu tư trong nước; hướng vào những hoạt động đầu tư mang lại giá trị cho nền kinh tế và liên kết các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI, với chuỗi cung ứng toàn cầu. làm thế nào để ta có lợi thế vươn ra nhiều hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu, theo tôi, sẽ thay đổi được giá trị gia tăng trong hoạt động xuất khẩu của chúng ta.PV: Về năng lực nội tại hiện nay của các doanh nghiệp Việt, chúng ta đang yếu ở đâu: công nghệ, thị trường hay nguồn nhân lực?
Ông Phạm Minh Thắng: Bên cạnh đó, những điểm tích cực về tăng trưởng và thâm nhập về chuỗi cung ứng trong thời gian qua hiện nay có một vài thách thức mà các doanh nghiệp cần thích ứng.
Thứ nhất là liên quan đến tiếp tục tăng cường và đổi mới công nghệ, ứng dụng thành tựu của công nghệ số, thực hiện chuyển đổi số. Đây là một điểm hạn chế vì với các ngành công nghiệp hỗ trợ, phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa do sự hạn chế về mặt quy mô nên khả năng đầu tư bị vướng. Nếu doanh nghiệp quy mô lớn, họ sẵn sàng có các kế hoạch về đầu tư như công nghệ hoặc chuyển đổi số nhanh chóng. Song các quyết định như vậy còn khó khăn với các doanh nghiệp nhỏ hơn vì liên quan đến vốn đầu tư, đến khả năng thu hồi vốn và khấu hao trong bối cảnh biến động của thị trường.

Thứ hai là khả năng tiếp cận thị trường. Mặc dù trong những năm vừa qua, đặc biệt là sau Covid 19, đã có các thay đổi, song thực trạng là, trước covid, công nghiệp hỗ trợ Việt Nam chứng kiến làn sóng tăng trưởng liên tục. Trong đó, các doanh nghiệp sản xuất cơ bản bị động trong xúc tiến thị trường, vì khi đó cầu của người mua lớn, họ chủ động tìm đến các nhà cung cấp. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần cách tiếp cận chủ động hơn và có giá trị cao hơn trong xúc tiến thị trường, thay vì việc chờ khách hàng đến hỏi. Bài toán đặt ra là làm thế nào chúng ta mang được sản phẩm và giải pháp ra thị trường quốc tế chào bán với vị thế tốt hơn và đơn giá tốt hơn.
PV: Khái niệm 'tăng nội lực' nên được nhìn nhận như thế nào trong bối cảnh hiện nay? Đâu là vấn đề cốt lõi và dài hạn?
TS Lê Duy Bình trả lời: Sức chống chọi, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được định hình bởi sự ổn định của kinh tế vĩ mô, năng lực cạnh tranh của kinh tế vĩ mô. Đó là môi trường chính trị ổn định, các chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh, đảm bảo được sự ổn định. Như vậy, chúng ta cần những chính sách mạnh mẽ.
Chúng ta cũng cần môi trường cạnh tranh tốt để đảm bảo sự phát triển của doanh nghiệp hài hoà, đồng đều. Cần có môi trường kinh doanh hấp dẫn, môi trường đầu tư hấp dẫn với các doanh nghiệp trong, ngoài nước. Đó là những nội lực nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế ở cấp độ vĩ mô.
Năng lực này còn đến ở cấp độ vi mô, từ chính các doanh nghiệp, cơ sở kinh tế trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp cũng phải nâng cao năng lực ở cấp độ vi mô của mình, trong đó có năng lực về tài chính; công nghệ; quản trị của các doanh nghiệp đó; chiến lực hoạt động, kinh doanh; chất lượng hoạt động, chất lượng lãnh đạo... Tất cả sẽ nâng cao nội lực của doanh nghiệp ở cấp độ vi mô.
Chúng ta cũng cần năng lực nội sinh đến từ các tổ chức trung gian có năng lực mạnh mẽ hơn, có vai trò quan trọng để đồng hành cùng doanh nghiệp, chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước để tạo dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn và chi phí thấp, đạt tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình phát triển.
Tất cả những năng lực đó sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh được năng lực khác của nền kinh tế mà tôi nghĩ rằng vô cùng quan trọng. Nếu ta có tất cả những yếu tố đó, thì những năng lực nội tại của nền kinh tế như đầu tư tư nhân sẽ được đẩy mạnh. Đây là một trụ cột vô cùng quan trọng, từ đó ta sẽ kích thích được tiêu dùng trong nước, khai thác được thị trường trong nước – một nội lực quan trọng khác – thay vì chỉ chú trọng duy nhất vào hoạt động xuất khẩu.
Công tác quản lý tài chính công cùng với các doanh nghiệp nhà nước, kinh tế trong nước sẽ có nguồn vốn đầy đủ hơn để thực hiện những công trình, cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn đầu tư công. Những điều đó đã có được 3 điều rất quan trọng trong tổng cầu để đảm bảo được sự tăng trưởng bền vững. Đó sẽ là năng lực tổng hoà để chúng ta có thể tăng cường năng lực nội sinh của nền kinh tế.
PV: Hiệp hội VASI đã có những khuyến nghị cụ thể nào để hỗ trợ doanh nghiệp nội phát triển bền vững?
Ông Phạm Minh Thắng: Tăng cường nội lực và phát triển năng lực cạnh tranh toàn cầu của các doanh nghiệp Việt là rất quan trọng, hiện là một trong những trọng tâm chính sách của Đảng và Chính phủ trong phát triển kinh tế tư nhân. Nhưng khi nhìn vào mô hình trụ cột theo chuỗi cung ứng hiện tại – chuỗi cung ứng kim cương – ta thấy rằng có nhiều lựa chọn để phát triển các doanh nghiệp trụ cột. Đó có thể là các doanh nghiệp phát triển và sở hữu các sản phẩm; các doanh nghiệp OEM. Trong một số trường hợp, bản thân các doanh nghiệp làm linh kiện cũng có thể trở thành các doanh nghiệp trụ cột, vì khi có doanh nghiệp sản xuất linh kiện tốt và sở hữu sản phẩm với nhiều nghiên cứu và bằng phát minh, sáng chế, họ sẽ cung cấp cho rất nhiều các chuỗi cung ứng, trở thành thành phần quan trọng, không thể thiếu trong chuỗi cung ứng. Nhìn vào góc độ này, chúng tôi có rất nhiều khuyến nghị về mặt tham vấn chính sách.
Đối với Chính phủ và các cơ quan hữu quan, các khuyến nghị liên quan đến việc phát triển các doanh nghiệp đầu chuỗi, doanh nghiệp có thiết kế và sản phẩm được sở hữu ở Việt Nam, các đề xuất liên quan đến phát triển và hình thành các cụm liên kết, tăng cường khả năng hợp tác giữa các doanh nghiệp hội viện của VASI, tăng cường sự phát triển trong năng lực nghiên cứu và phát triển, đặc biệt trong công nghệ, sản phẩm và thúc đẩy năng lực đổi mới về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để phát triển nội lực của doanh nghiệp.
Một điểm quan trọng nữa là muốn có doanh nghiệp lớn thì “phải có sóng lớn”. Cần sự đầu tư và hỗ trợ nhất định về tài chính để các doanh nghiệp có thể tích luỹ đủ tài chính cho việc trở thành trụ cột. Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng khi nhìn vào các chuỗi cung ứng trong sản xuất hiện tại, càng ngày ta càng thấy một số doanh nghiệp đã, đang tích luỹ tư bản rất lớn. Họ đã có quy mô sản xuất lớn hơn nhiều so với quy mô của các doanh nghiệp so với 5-7 năm trước đây.

PV: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới, để thực sự tạo dựng một nền kinh tế vững vàng từ bên trong?
TS Lê Duy Bình: Để có nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường, cần phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố bên trong. Cần có đầu tư tư nhân mạnh mẽ.
Tôi kỳ vọng trong thời gian tới, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương sẽ phản ánh mạnh mẽ hơn việc đặt kinh tế tư nhân là một trụ cột quan trọng nhất của quá trình tăng trưởng sắp tới. Tất cả các chính sách, việc hoạch định chiến lược, cải thiện môi trường kinh doanh, xây dựng quy định pháp luật; việc điều hành kinh tế của các địa phương và Chính phủ trong thời gian tới sẽ làm thế nào cải thiện được môi trường kinh doanh kích thích được đầu tư tư nhân mạnh mẽ hơn; điều chỉnh được dòng vốn đầu tư tư nhân và những linh vực mà ta muốn tái cấu trúc nền kinh tế.

Thứ hai là ta sẽ đặt nhiều hơn vào việc phát triển thị trường nội địa trong nước. Chúng ta có 100 triệu dân – một thị trường lớn và rất nhiều nền kinh tế khác mong muốn có thị trường lớn như ta đang có hiện nay. Và thị trường này không chỉ cung cấp nguồn lao động, mà đây là một lượng người tiêu dùng lớn mà đó là trọng tâm mà ta cần chú ý. Đặc biệt trong hoạt động đầu tư, chúng ta phải chú ý nhiều hơn đến hoạt động đầu tư tư nhân, nhưng cũng cần chú trọng đến hoạt động tái cấu trúc đầu tư nguồn vốn FDI, điều chỉnh hoạt động xuất khẩu. Những chiến lược đó sẽ đi kèm với những kế hoạch phát triển kinh tế tư nhân, đầu tư nước ngoài sẽ vào những lĩnh vực hỗ trợ chuyển dịch nền kinh tế sang một nền kinh tế dựa nhiều hơn vào tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Hoạt động xuất khẩu sẽ không chạy theo kim ngạch xuất khẩu và chạy theo giá trị gia tăng.
Chúng ta có 100 triệu dân – một thị trường lớn và rất nhiều nền kinh tế khác mong muốn có thị trường lớn như ta đang có hiện nay. Và thị trường này không chỉ cung cấp nguồn lao động, mà đây là một lượng người tiêu dùng lớn mà đó là trọng tâm mà ta cần chú ý.

Ông Phạm Minh Thắng: Thứ nhất, ở góc độ doanh nghiệp, chúng tôi rất kỳ vọng, tin tưởng vào việc sẽ có một Chính phủ hành động với các định hướng rõ ràng và mạnh mẽ, thực sự đóng vài trò kiến tạo, “bà đỡ” doanh nghiệp, nhất là trong thời gian gần đây. Ta có thể thấy những thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu, tổ chức, chính sách; lấy các đối tượng như doanh nghiệp, kinh tế tư nhân làm trung tâm.
Thứ hai. Chúng tôi rất kỳ vọng trong thời gian tới, khi các doanh nghiệp hội viên và đối tác không chỉ giới thiệu về năng lực, quy mô, con người, mà họ sẽ giới thiệu nhiều hơn về công nghệ, các phát minh sáng chế, bằng bảo hộ phát minh sáng chế mà họ có được. Thông qua đó sẽ tăng hàm lượng của khoa học công nghệ trong tăng trưởng cấp doanh nghiệp và cấp nền kinh tế.

Thứ ba, chúng tôi kỳ vọng ta sẽ có cơ hội để phát triển, phục vụ cho doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất dịch vụ khác nhau, những người không chỉ có khả năng làm chủ quy trình, công nghệ mà sau này còn có thể dẫn dắt các khía cạnh này trong tương lai. Khi đến các doanh nghiệp và chứng kiến những điều như thế, tôi cho rằng doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế. Khi một doanh nghiệp phát triển vững mạnh, có những điều kiện tốt thì có để phát triển và tạo động lực không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho nhân sự và đối tác của họ. Đó là điều rất tốt cho việc chúng ta sẽ có một nền kinh tế với các thành phần mạnh mẽ và sẵn sàng phát triển trong tương lai.
Trong ngắn hạn, chúng tôi cũng nghĩ đến nhiều các thách thức, khó khăn. Tuy nhiên ở phương diện là người hỗ trợ, chúng tôi cũng có một niềm tin mạnh mẽ vào khả năng phát triển bền vững trong thời gian tới.
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu đầy biến động, việc đặt lại câu hỏi về mô hình tăng trưởng là điều cần thiết. Giảm phụ thuộc vào xuất khẩu không có nghĩa là quay lưng với thế giới – mà là để kinh tế Việt Nam có thể tự đứng vững bằng đôi chân của mình, đồng thời vươn ra thế giới với nền tảng vững vàng hơn.
Thực hiện: Hoàng Hợp
Thiết kế: Thanh Nga